Lũng-cần Nhiêu-ráng-ba (zh. 隴勤饒絳巴, bo. klong chen pa ཀློང་ཆེན་པ་),
1308-
1364, là một đại sư
Tây Tạng phái Ninh-mã (bo. nyingmapa རྙིང་མ་བ་), được tặng danh hiệu "Nhất thiết trí giả." Sư đóng một vai trò quan trọng trong giáo pháp
Đại cứu cánh (bo. rdzogs chen རྫོགས་ཆེན་) vì đã phối hợp được nhánh của
Liên Hoa Sinh (sa. padmasambhava) với nhánh
Vô Cấu Hữu (zh. 無垢友, sa. vimalamitra), đưa vào một hệ thống chung. Trong một cuộc đời tương đối ngắn, Sư đã viết 270 tác phẩm mà những tác phẩm quan trọng nhất được gọi là "bảy món quý". Đặc điểm của các tác phẩm của Sư là chiều sâu của tư tưởng và tính chất rõ rệt, chính xác. Những tác phẩm này vẫn còn tác động trong dòng Ninh-mã.Lên 11 tuổi, Sư đã được gia nhập giáo hội và sau đó chú tâm học tập. Ngoài trường phái mình, Sư còn học thêm giáo pháp của các
phái Tát-ca (bo. sa skya pa ས་སྐྱ་པ་) và là đệ tử của Cát-mã-ba (bo. karmapa ཀར་མ་པ་) thứ ba (
1284-
1339). Sau đó hai biến cố lớn xảy ra cho Sư: sau khi chứng được linh ảnh của
Liên Hoa Sinh và đệ tử là
Ye-she Tsog-yel, Sư có quan hệ trực tiếp các
Không hành nữ (sa. ḍākinī), được truyền thụ giáo pháp
Đại cứu cánh và có trách nhiệm ghi lại thành văn bản chôn dấu, các bí lục (bo. gter ma གཏེར་མ་). Sau đó Sư lại gặp
Vô Cấu Hữu, được chân truyền phép
Đại cứu cánh và tổng hợp hai dòng Đại cứu cánh nói trên thành một hệ thống duy nhất.Nhiêu-ráng-ba là vị trụ trì chùa
Tang-da (bo. bsam yas བསམ་ཡས་) tại Trung Tây Tạng. Tuy thế phần lớn thì giờ, Sư vẫn hay đi vân du và sống viễn li. Sư cũng là người sửa chữa lại nhiều chùa, nhất là những chùa tại
Bhutan trong thời gian Sư phải biệt xứ tại đó hàng chục năm. Đời sau, có Jig-me Ling-pa (
1730-
1798) nghiên cứu rõ về Sư và đưa Sư lên hàng Đại sư của dòng Ri-mê (bo. ris med རིས་མེད་).